TÍNH "ƯỚC LỆ" TRONG NGHỆ THUẬT TUỒNG

Admin

2022-01-05T02:33:13+01:00 https:///vi/news/tin-tuc/tinh-uoc-le-trong-nghe-thuat-tuong-59.html https:///uploads/news/2021_11/lan-anhquyen.jpg

Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Bình Định

            Thực tế cho thấy, môn nghệ thuật nào cũng có ước lệ nhưng chỉ khác nhau ở chỗ là mức độ “ước lệ” cao hay thấp, đậm hay nhạt. Ước lệ là sự quy ước của con người với nhau, giữa diễn viên với khán giả về một tín hiệu nào đó. Ước lệ còn được hiểu là sự giản ước theo một tỉ lệ nhất định hoặc là sự quy ước ngầm: là cái không có mà làm ra có, cho người ta tin rằng có. Nó là giả nhưng thông qua cái giả để nói cái thật của cuộc đời bằng những động tác cách điệu và tượng trưng trên nguyên tắc ước lệ. Ở một góc độ nhất định, ước lệ có ý nghĩa bao hàm hiệu quả tả ý, tả thần.
         Dù hiểu theo cách nào thì ước lệ trong sân khấu truyền thống nhằm tạo ra một hiện thực mới, mang lại hiệu quả nghệ thuật, tác động vào tình cảm, thẫm mỹ và trí tuệ của người xem. Tính ước lệ thực sự có sức mạnh chi phối, thấm sâu vào tất cả các phương tiện diễn tả của nghệ thuật Tuồng, góp phần thể hiện rõ đặc trưng và cái hay, cái đẹp của bộ môn nghệ thuật truyền thống này.
         Nghệ thuật Tuồng có tính ước lệ cao và được vận dụng thành một phương thức quán triệt toàn bộ. Ước lệ trong nghệ thuật Tuồng được sử dụng qua xử lý về không gian, thời gian. Ước lệ về không gian có nhiều dạng.
         Thứ nhất, dùng lời kể của nhân vật để thực hiện ước lệ về không gian. Đối với nghệ thuật Tuồng, để diễn tả một quảng đường dài hàng ngàn dặm từ triều đình đến biên ải xa xôi chẳng hạn, người diễn viên chỉ cần đi một vài vòng quanh sân khấu rồi dùng lời nói để kể ra là mình đã đi đến nơi. Hay để diễn tả đội quân hùng mạnh hàng ngàn người đang ra trận thì chỉ dùng vài diễn viên trên sân khấu cùng với tiếng hò reo vang vọng từ hậu trường. Vì thế, các nghệ sỹ xưa đã đúc kết thành thơ:
                                                                “Vạn lý trường chinh tam tứ bộ
                                                                 Thiên binh vạn mã ngũ lục quân
        Chỉ qua lời kể của nhân vật kết hợp với các động tác đi lại, đứng ngồi, múa, diễn trong phạm vi vài chục mét vuông nơi sàn diễn giúp khán giả tưởng tượng ra, đó là cả một trời mây, non nước, núi cao, vực thẳm, hay ruộng đồng, thuyền sông…
        Thứ nữa là dùng động tác để ước lệ về không gian. Trong nghệ thuật Tuồng (hát Bội, hát Bộ), diễn viên hát “lời đâu bộ đó”. Vì thế, khi họ dùng lời kể của nhân vật để thực hiện ước lệ về không gian thì lúc đó phải kết hợp thực hiện các động tác vũ đạo phù hợp với câu hát, hoàn cảnh, tính cách của nhân vật. Cụ thể, trong tuồng “Hộ sanh đàn”, lớp Tiết Cương gặp Lan Anh trên đường về sơn trại, đường đi đèo cao, hố sâu gai góc chập chùng. Tiết Cương xuống ngựa dùng độc phủ phát đường và cùng Lan Anh đi bộ. Anh đã dìu vợ qua các suối chỉ trong tưởng tượng của người diễn viên và làm động tác ước lệ thì khán giả vẫn đồng tình với nhân vật là đường sá khó đi, gập ghềnh khe suối. Hay khi diễn tả cảnh Lan Anh vừa thua trận, bị quân giặc truy đuổi, vừa bị lạc mất chồng trong tình thế bụng mang dạ chửa. Trên đường chạy loạn, Lan Anh lại trở dạ sinh con. Khi “đau đẻ”, diễn viên làm động tác ôm bụng quằn quại, chau mày, nhăn mặt, miệng ngậm lông trĩ lăn qua lăn lại như ngoài đời thật. Sự kết hợp nhiều động tác mang tính ước lệ của người diễn viên đã lột tả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần của nhân vật Lan Anh. Đồng thời, thông qua tài nghệ diễn xuất giàu tính biểu hiện của diễn viên đã tạo nên một lớp diễn sinh động, đi vào tâm thức của khán giả bởi khả năng khái quát cuộc sống với tính ước lệ của nghệ thuật Tuồng. NSƯT Nguyễn Công Vinh- người được Đoàn tuồng Liên khu V cử sang Bungari học lớp Đạo diễn sân khấu từng kể lại rằng: Cuối khóa học, anh đã chọn một trích đoạn tuồng đậm chất ước lệ để diễn báo cáo Tốt nghiệp. Sau khi diễn xong, anh được thầy dạy khen: “Phương cách thể hiện như thế này làm cho Sân khấu được mở rộng không gian, sân khấu không còn tự nhiên chủ nghĩa và tránh được sự rườm rà của việc bày bối không gian.” Điều đó cho thấy, tính ước lệ cao là nét rất độc đáo của nghệ thuật Tuồng.
        Đối với hát Bội, muốn thể hiện động tác vào nhà, người diễn viên chỉ cần thực hiện động tác nhún chân bước qua là người xem sẽ hiểu diễn viễn vừa từ bên ngoài đi vào nhà (thực tế trên sân khấu không có nhà thật chỉ một khoảng không rộng của sàn diễn).
        Tiếp theo là dùng đạo cụ để ước lệ về không gian. Trong Tuồng, người diễn viên thường sử dụng các đạo cụ nhằm gợi trí tượng tượng cho người xem về hành động của nhân vật. Cụ thể như chỉ một chiếc roi ngựa trên tay cộng với các động tác phù hợp của người diễn viên, khán giả có thể cảm nhận, hình dung ra nhân vật đang lên ngựa, cưỡi ngựa thong dong, phi ngựa qua đèo, qua suối hay biểu hiện được động tác ngựa vui, buồn, chiến thắng, bại trận. Tính ước lệ còn được thể hiện rõ trong các động tác như chèo thuyền, đóng, mở cửa… Thông qua một chiếc mái chèo bằng gỗ trong tay kết hợp với những động tác hình thể chao đảo, bồng bềnh của người diễn viên, khán giả được chứng kiến nhân vật đang chèo thuyền, vượt thác.       
        Trong trích đoạn “Nhị khí Chu Du” (tuồng Giang tả cầu hôn), khi thấy “thuyền” Lưu Bị vượt sông, Chu Du đã sai quân mang thuyền ra chèo đuổi theo (thực chất là người diễn viên chỉ lấy mái chèo bằng gỗ và làm động tác chèo thuyền vòng quanh sân khấu) thì khán giả hiểu là diễn viên đang diễn tả cảnh chèo thuyền trên sông. Hay khi đến nhà người khác trên sân khấu Tuồng, người diễn viên phải thực hiện động tác gõ cửa hoặc gọi to, diễn viên khác (người ở trong nhà) sau khi nghe thấy tín hiệu mặc dù không có cửa đóng then cài như ngoài đời thật nhưng phải thực hiện động tác mở chốt cửa, kéo cửa trên nguyên tắc ước lệ để người xem hiểu được bối cảnh, tình huống của nhân vật.

NHỊ KHÍ CHU DU ANH NHÂN


                                                                         Nhân vật Chu Du (tuồng Giang tả cầu hôn)

        Ước lệ về sử dụng đạo cụ còn thể hiện rõ khi có yến tiệc, dù tiệc to hay nhỏ, lớn hay bé đều chỉ sử dụng một “bàn tiệc” với bình rượu và chén làm bằng gỗ. Chỉ chừng ấy thôi mà vẫn có người say, người đắng, có người không nuốt được phải đổ đi… Thông qua thủ pháp ước lệ trong nghệ thuật Tuồng để diễn tả tâm trạng, tính cách nhân vật uống rượu chứ không phải đề cập đến uống loại rượu gì…Đó là điều rất thú vị của nghệ thuật Tuồng. Ước lệ về không gian qua việc sử dụng đạo cụ đã khiến nghệ thuật kể chuyện trên sân khấu vô cùng sinh động, hấp dẫn và mang tính khái quát cao.
        Còn ước lệ về thời gian cũng có các dạng khác nhau. Thông qua tính ước lệ, một tích Tuồng là câu chuyện diễn ra vài ngày, vài tháng, thậm chí vài năm chỉ gói gọn trong một vài lời thoại, câu hát để ước lệ về thời gian của người diễn viên. Cụ thể, với câu nói lối của Hoàng Phi Hổ (tuồng Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan) ngồi trông chờ, lo lắng vợ vào cung thăm vua suốt từ sáng đến tối vẫn chưa thấy về được ước lệ về thời gian trong cách diễn kể của nhân vật:      
                                                              “Từ phu nhân gác giá
                                                                Hầu khánh đản cung trung
                                                               Trời đã xế vừng hồng
                                                              Sao chưa về phủ tía…”
        Hay trong tuồng Đào Phi Phụng, nhân vật Diệm Cửu Quỳ không kéo quân đi đánh Cát Thượng Nguyên được vì gặp lúc trời tối nên rất buồn bực đành làm lán trại tạm nghỉ và dùng rượu uống giải phiền đợi đến sáng mai. Thông qua một vài lời thoại và câu hát của nhân vật trong lúc uống rượu. Chén thứ nhất, chén thứ hai rồi đến thứ ba thì trời bắt đầu hửng sáng. Đó là nghệ thuật xử lý thời gian được ước lệ bằng mấy câu hát và ba chén rượu đã qua một đêm dài.

CẢNH NHÂN VẬT HOÀNG PHI HỔ BÀNG HOÀNG SAU KHI NGHE TIN VỢ BỊ TRỤ VƯƠNG GIẾT
                                                                         
                                                               Nhân vật Hoàng Phi Hổ (tuồng Phong thần)

         Không chỉ dùng câu hát, lời thoại, nghệ thuật Tuồng còn sử dụng động tác diễn xuất để ước lệ về thời gian. Trong tuồng Sơn Hậu, có lớp Kim Lân phò Hoàng tử đi lánh nạn lúc trời tối, phải vượt qua núi non hiểm trở. Lúc ấy, Linh Tá (người bạn tri kỷ của Kim Lân đã bị quân giặc giết) hiện hồn thành ngọn đèn đưa đường cho Kim Lân ẳm Hoàng tử vượt qua gian khó. Kim Lân vừa mở đường phát cây gai góc, vừa hát nam:
                                   “Ngọn giáo phát đường gai góc
                                   Thắt ruột vì tiếng khóc cô nhi
                                   Vin cây chen đá ngại gì
                                   Đèn soi nghĩa khí, non ghi cảnh tình”.
         Đến lúc ở hậu trường có tiếng gà gáy, Kim Lân rất vui mừng vì trời đã sáng nên hát tiếp: 
         “(Ủa mà trời đã sáng rồi đây)

                                  Tiếng gà vang khắp rừng xanh
                                 Ngọn đèn phút tắt, hồn anh đâu rồi
                   Lối:       Ngọn đèn vừa phút tắt
                                Thức trời cũng hây hây…”
        Với tài nghệ diễn xuất của diễn viên thông qua hàng loạt động tác miêu tả cảnh chạy giặc khó khăn, cực nhọc suốt đêm trong rừng vắng như chống thương, tay ẵm hoàng tử, ngồi, bê, xiến…Đồng thời, khán giả cũng tường tận và cảm nhận được sự vận hành của thời gian từ đêm đến sáng và thấy rõ tâm trạng của nhân vật trước ngoại cảnh đổi thay.
       Tính ước lệ của nghệ thuật Tuồng còn được sử dụng như một biện pháp để lược gọn cái hình thức bên ngoài mà tập trung đặc tả cái bên trong, nội tâm của nhân vật. Chẳng hạn như cảnh Trương Phi xướng rượu (tuồng Cổ Thành) cốt là để nhằm lột tả tâm trạng giận ức, khổ thương của con người bộc trực, nóng nảy trước hành động mà ông tưởng lầm là đầu hàng giặc của người anh kết nghĩa Quan Công.
        Tóm lại, ước lệ là một trong ba đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật Tuồng (ước lệ, cách điệu, tượng trưng) thường xuyên được sử dụng trên sân khấu. Ước lệ về không gian, thời gian là “mảnh đất màu mỡ” vốn có để cho người diễn viên dụng võ và làm phong phú phương thức thể hiện nhân vật, góp phần làm cho sân khấu gần gũi hơn với cuộc sống ở tầm mức khái quát cao.